|
|||||||||||||
|
Chính trịTamara Chalabi, tá điền không dùng trà 9 August, 2024Sáng ÁnhCô Tamara Chalabi trong bài trước của Soi thuộc thành phần nghệ thuật giòng “ái nữ” và danh phận thế giới, một phần là nhờ vào gia tộc, phần còn lại là nhở ở tài năng không thể chối cãi. Cô là con gái của Ahmed Chalabi, thủ tướng hụt lên hụt xuống của Iraq và người chủ chốt trong việc Hoa Kỳ xâm lăng quốc gia này và lật đổ chế độ Saddam Hussein. Thuộc về dòng này có thể kể đến bà Isabel Allende, là nhà văn hàng đầu của tiếng Tây Ban Nha và cháu ruột của tổng thống Salvador Allende, bị quân phiệt lật đổ 1973 tại Chile và tử thủ chết trong dinh. Tại Pháp, nhà văn Mazarine Pingeot được “phát hiện” là con riêng của tổng thống Francois Mitterand khi ông qua đời và mẹ con cô xuất hiện trong tang lễ. Tại Pakistan, có nhà thơ Fatima Bhutto là cháu của tam đại thủ tướng Benazir Bhutto nhưng lại có hiềm khích với bà dì. Hình như là ông dượng (chồng bà Benazir, sau là tổng thống Asif Ali Zardari, tục gọi là “Phu quân 10%” vào thời vợ ông trị nước), chính ông này là người ra lệnh ám sát em vợ là Murtaza Bhutto vì bất đồng chính kiến và tranh chấp quyền lực. Gần đây (2013-2016), trong lãnh vực nhiếp ảnh và phim tài liệu, còn thấp thoáng cô Moska Najib, con gái của vị chủ tịch nước sau cùng của Afghanistan vào thời Xô-viết là Mohammad Najibullah. Ông cầm quyền thời Liên Xô chiếm đóng, khi Liên Xô rút đi, ông giải tán đảng Cộng sản và tuyên bố Afghanistan trở thành một Cộng hòa Hồi giáo nhưng cũng không khỏi chết thảm khi Taliban vào thủ đô. Từ chối mấy bận không di tản (dù là di tản sang khu vực khác tại ngay trong nước), Najibullah bị Taliban hành hạ, thiến (!) rồi kéo lê sau xe con trước khi treo cổ ngoài đường. Cha của cô Tamara Chalabi may mắn hơn, ông qua đời vì bịnh tim vào năm ngoái, trong khi chờ đợi có dịp chấp chánh trở lại (tình hình tại Iraq thế này thì biết đâu, Saddam mà còn sống dám chính Hoa Kỳ mời trở lại làm lãnh tụ). Cô Tamara Chalabi cũng may mắn hơn, không phải lưu vong và mưu sinh như cô Moka Najib (tại Ấn Độ). “Và cuộc sống lang thang xứ người” của cô là London, Beirut (nơi ông Chalabi dung thân sau khi chuyển 288 triệu USD của ngân hàng ông làm chủ tịch tại Jordan vào trong túi riêng). “Nhiều cay đắng xót xa giữa đời”* của cô là nữ sinh nội trú tại Oxford, cử nhân đại học Brown ở Mỹ, thạc sĩ Cambridge và tốt nghiệp tiến sĩ sử học tại Harvard. “Nào ngờ đâu tương lai mờ lối”** của cô là được trở về sống nép bóng cha tại nước nhà (tại ông làm mưa làm gió, không nép bóng ông thì nó tạt ướt cả người, chết chửa). Như cha, như ông nội và ông cố nội của cô trước đó, cô trở thành lãnh đạo trong lãnh vực của cô là nghệ thuật: Chủ tịch của Ruya Foundation, một tổ chức nghệ thuật phi lợi nhuận. “Đến bây giờ một mình đơn côi”*** của cô là đồng-quản lý của nhà Iraq tại Biennale Venice. Những lần trước tại Venice, Ruya đã lọt chân với chủ đề “Vẻ đẹp tiềm ẩn” (Hidden beauty). Sang năm, cô nhanh bước phát biểu là phải bảo vệ nghệ thuật Iraq trước sự đe dọa diệt nghệ thuật của IS (Quốc gia Hồi giáo). Cô thật là tài, IS thì mếch lòng tất cả mọi người, chẳng riêng gì giới nghệ sĩ Tây phương. Tài viết văn của cô thì nghe đâu có thực. Chuyện thuật “Late for tea at the Deer Palace” (Muộn dùng trà tại Dinh Con nai vàng) không ngơ ngác mà đằm thắm dựng lại lịch sử cận đại của Iraq, dưới góc nhìn trìu mến của một danh gia vọng tộc và phú gia địch quốc, tức là gia đình của cô. Tất nhiên, đây không phải là góc nhìn của tá điền nô dịch dưới chế độ quân chủ (“Anh không đòi trà”) cũng như không phải là góc nhìn của 500.000 trẻ em chết đói và chết bệnh trong thời gian cấm vận hay 1 triệu rưỡi người thiệt mạng trong cuộc chiến tranh xâm lăng bởi lý do được dựng đứng bởi thân phụ Ahmed. * 04. 07. 2016 Ý kiến - Thảo luận
Bài đã đăng
|
|
|||||||||||
|